Tên di sản : Bia ký nơi thờ Khằm Ban
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : Số 65/QĐ-VHTT
Giới thiệu
Di tích lịch sử văn hoá Bia ký nơi thờ Khằm Ban ở Pom Kéo, Bản (làng) Khằm, nằm ở trung tâm xã Hồi Xuân (kể huyện lỵ huyện Quan Hoá), ở ven đường giao thông quốc lộ, liên kề bờ sông Mã nơi hợp lưu 3 con sông: Sông Lô, sông Luông, sông Mã chạy qua, bên bờ khe suối Khó.
Tên bia: Bia đền thờ vị thần họ Phạm ở Hồi Xuân - huyện Quan Hoá:
Mặt trước bia: Mặt chính trên trán bia có 9 chữ to: "Quan Hoá Hồi Xuân - Phạm tộc thần từ bi" nghĩa là bia đền thờ vị thần họ Phạm ở Hội Xuân huyện Quan Hoá. Bia gồm 18 hàng chữ, hàng nhiều 28 chữ, hàng ít 2 chữ. Gồm 414 chữ, chữ Hán chân phương còn tương đối rõ chữ (xem ảnh chụp và bản dập bia).
Hàng thứ nhất có 2 chữ: Tộc duy
Hàng thứ hai có 14 chữ: Ngã phạm tộc lịch ngũ chân trung nhất đại tộc Giã việt phả giã.
Hàng thứ 3 đến hết hàng thứ 15: Mỗi hàng có 28 chữ.
Hàng thứ 16 có 4 chữ: Thức khởi vị chí.
Hàng thứ 17 có 2 chữ:
Hàng thứ 18 có 17 chữ: Ghi tên người soạn văn bia là quan Tri châu Quan Hoá: Phạm Quang Vinh là cháu xa (hậu duệ của Khằm Ban), ghi chép lại việc đã qua.
Mặt sau bia: Có 10 hàng chữ, khoảng 150 chữ (vì có nhiều chữ mờ không đọc được.)
Hàng thứ nhất có 29 chữ;
Hàng thứ hai có 20 chữ;
Hàng chữ ba có 20 chữ;
Hàng thứ tư có 7 chữ
Hàng thứ năm, thứ 6 bị mờ chữ.
Hàng thứ 7 có 17 chữ: Hoàng triều Duy Tân niên (bị mờ 5 chữ) thập nguyệt thấp nhất nhật phụng cốc.
Hàng thứ tám có 10 chữ: Thân tôn lĩnh bản châu, tri châu Phạm Quang Vinh.
Hàng thứ chín có 10 chữ: Bản châu...Phạm Bá Út Hàng thứ mười có 15 chữ - Bia dựng niên hiệu Duy Tân (năm 1907) ngày 11 tháng 10.
Người ghi văn bia cháu (hậu duệ của Khằm Ban) Phạm Quang Vinh làm quan tri châu (châu Quan Hoá).
Người chủ trì khắc Bia là cháu: Phạm Bá Út, cùng các ông là trưởng họ, các chi họ và quan lại ở bản quán tham gia công đức (Nội dung xem phân dịch nghĩa).
Trang trí bia: Mũ bia là 3 hình bán nguyệt ghép thành (hình tam sơn), ở giữa cao nhô lên, 2 bên thấp xuống, bia chạm đầu rồng hình hổ phù, nét chạm chìm rõ nét, đường nét trau chút, miệng rồng chạm hình chữ thọ vuông. Vành trán có tai bia, tai bia tràn ra ngoài mỗi bên 7cm, chiều ngang tai bia: 82cm, thân bia có đường riềm gờ chỉ kép. Hai niềm ngoài rộng 5cm cao hơn mặt bằng lòng bia 1cm, trang trí lá cúc dây leo nét chạm kép, mỗi bên 13 đội lá và hoa đối xứng nhau. Riêm đáy rộng 7cm, cao hơn mặt bằng lòng bia 1cm, trang trí 7 bông hoa cúc xuôi ngược đối xứng nhau, nét chạm kép.
Gờ chỉ bên trong hai bên và đáy là gờ chỉ nổi rộng 1cm thẳng, phẳng đều 3 mặt.
Mặt sau bia cũng trang trí tương tự mặt trước song bị mờ qua nhiều chỗ.
Đền thờ: Hiện nay chỉ còn nền móng đến diện tích nhà tiền đường dài 15m, rộng 7m.
Diện tích nhà chính tẩm dài 9m, rộng 5m.
Diện tích khuôn viên khu vực đền: Dài 60m, rộng 50m, lối lên xuống rộng 6m, dài 30m
Tổng thể diện tích khu vực là: 3,18m2. Phía Bắc khu vực giáp khu dân cư.
Phía Nam giáp khu dân cư Phía Đông giáp đường giao thông mới. Phía Tây giáp đường giao thông cũ.
Phần đền thờ: Theo văn bia đã ghi: Đền được xây dựng từ ngay sau khi ông mất (cuối thế kỷ XV) là ngôi đền cỏ đã bị hư hỏng. Đến niên hiệu Duy Tân (1907), mới xây dựng lại bằng gạch song cũng bị hư hỏng.
Trong khu di tích còn nhiều di vật quý: Một phần của mặt trống đồng, rìu đồng, giáo đồng, kiếm sắt. Một bia mộ bằng đá của người cháu xa đời của Khằm Ban, 2 đạo sắc thời Lê phong cho con trai ông Khằm Ban là ông: Phạm Ngọc Chúc ông là quan sinh thời là Phụ Quốc Thượng tướng quân, chức Thái uý, tước Xuân Lĩnh Bá trụ quốc Trung trật (niên hiệu Gia Thái năm thứ tư (1576) ngày 22 tháng 7.
Sau thăng lên chức Thái uý, tước Phú Xuyên hầu cho Phạm Ngọc Chúc, Tả tướng quốc. (Niên hiệu thời Lê - bị rách chữ).
Thế hệ các cháu Khằm Ban có nhiều vị làm quan tước: 37 sắc, chỉ thời Nguyễn - vua Tự Đức phong 8 sắc chỉ: Ban cho Phạm Bá Ất chức Tam Kỳ khắc biện thư lại, cai tổng (3 đạo sắc). Phạm Bá Sản giữ chức Tam Kỳ Khắc Thư Lại rồi chức Sai Phái thừa biện ở phủ Quảng Hoá, cai tổng thí sai cai mục chánh đồng mục coi việc trong Tổng Phú Lệ, ông là người hay chữ biết dịch chữ Hán sang chữ Mường (5 đạo sắc); 14 đạo sắc chí vua Thành Thái phong cho Phạm Bá Hai giữ chức Bang Biện, rồi Tri châu Quan Hoá (13 đạo sắc). Phạm Bá Thọ (1 đạo sắc).
Vua Duy Tân ban 6 đạo sắc cho Phạm Quang Vinh là tri châu Quan Hoá.
Vua Khải Định ban 1 đạo sắc cho Phạm Quang Vượng làm quan thẩm sát châu Quan Hoá.
Vua Khải Định còn ban cho 2 tổng 8 xã thờ Khằm Ban.
Vua Bảo đại ban 7 đạo sắc và bằng cho Phạm Quang Ngọc; Bia Phạm Bá Thọ.